thieu tuong pham van phu
Tư Lệnh Quân Đoàn 2 Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc Việt. Sau khi tốt nghiệp học khóa 8 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào giữa năm 1953, ông đã tình nguyện phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù.
Tại cuộc họp chiều 20/2, thiếu tướng Phạm Chuyên - Giám đốc CA TP Hà Nội chính thức thông báo cho các nhà báo ở Trung ương và Hà Nội: "Trong tình hình một vụ án gây bức xúc rất lớn trong dư luận từ Tết đến giờ và sau khi cơ quan điều tra tiến hành một số biện pháp tố tụng hình sự thì dư luận càng có nhiều ý kiến.
Tieu su tuong Pham Van Phu Phong Cách Anh Hùng Của Tướng Phạm Văn Phú Từ 1975 tới nay, có một số người viết về Tướng Phạm Văn Phú, một cấp chỉ huy trong ngành LLĐB và Nhảy Dù cũ. — San Jose có tờ báo cũng cho đăng bài của một sĩ quan cấp Tá, nặng lời với một chiến hữu đã mất.
Tags: Thiếu tướng Phạm Hồng Chương Triển khai quyết định của Thủ tướng Chính phủ về công tác cán bộ Tổ chức nhân sự 1 năm trước (Chinhphu.vn) - Ngày 19/7, Bộ Tư lệnh Quân khu 2 tổ chức Hội nghị bàn giao nhiệm vụ Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 2.
Thiếu tướng Phạm Sơn Dương là người con trai duy nhất của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và bà Phạm Thị Cúc, ra đời đã sớm chịu nhiều thiệt thòi khi không có được sự chăm sóc đầy đủ của mẹ. Vì bận bịu công việc của đất nước nên khi đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng phải nhờ thầy giáo Vũ Linh (em vợ
materi bahasa indonesia kelas 2 sd semester 1 pdf. Phạm Văn Phú 1928-1975, nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở nam Cao nguyên Trung phần vào thời điểm Quân đội Quốc gia còn là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Ra trường, ông gia nhập vào Binh chủng Nhảy dù, về sau ông chuyển sang Chỉ huy Binh chủng Lực lượng Đặc biệt và Bộ binh cấp Sư đoàn. Sau cùng ông là Tư lệnh một trong 4 Quân đoàn và Vùng chiến thuật của Quân lực Cộng hòa. Ông là một trong năm tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Tiểu sử & Binh nghiệp Ông sinh ngày 16 tháng 10 năm 1928, trong một gia đình Nho học tại Hà Đông, miền Bắc Việt Nam.[2] Năm 1948, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài bán phần Part I. Sau đó ông được tuyển dụng làm công chức tại Hà Đông một thời gian đến khi gia nhập quân đội. Quân đội Quốc gia Việt Nam Giữa năm 1952, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân 48/ Theo học khóa 8 Hoàng Thụy Đông tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1952. Ngày 28 tháng 6 năm 1953 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường ông được chọn phục vụ trong đơn vị Nhảy dù của Quân đội Liên hiệp Pháp. Sau đó, ông chuyển về Tiểu đoàn 5 Nhảy dù đảm trách chức vụ Trung đội trưởng. Tháng 12 cùng năm, ông được thăng cấp Trung úy giữ chức vụ Đại đội phó. Ngày 14 tháng 3 năm 1954, ông được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 1 của Tiểu đoàn 5. Ngày 25 tháng 4, ông được đặc cách thăng cấp Đại úy tại mặt trận do chiến tích của Đại đội ông chỉ huy đạt được trong nhiệm vụ tái chiếm cứ điểm trọng yếu đồi Elianne trong trận Điện Biên Phủ.[3] Ngày 7 tháng 5, ông được ghi nhận là mất tích tại chiến trường do bị đối phương bắt làm tù binh, sau đó bị đư về giam giữ ở trại giam Đình Cả, Thái Nguyên.[4] Ngày 8 tháng 7 năm 1955, sau Hiệp định Genève, cùng trong số 20 sĩ quan tù binh được Việt Minh trao trả qua ngã cầu Hiền lương, sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị thuộc vĩ tuyến 17. Sau đó được biên chế vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tháng 9 cùng năm, ông được cử theo học lớp Dẫn đạo Chỉ huy tại Trung tâm Huấn luyện số 1 ở Quán Tre.[5] Đến đầu tháng 2 năm 1956, ông được tái phục vụ trong Binh chủng Nhảy dù. aboutblank Report this ad Giữa tháng giêng năm 1960, ông được biệt phái qua đơn vị Bảo an, giữ chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Kiến Phong. Tháng 5 cùng năm, ông được cử làm Quận trưởng quận Trà Cú thuộc tỉnh Vĩnh Long. Ngày 26 tháng 10 cuối năm, nhân dịp lễ Quốc khánh lần thứ năm của nền Đệ nhất Cộng hòa, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Đầu tháng 8 năm 1961, ông được cử làm Liên đội trưởng Liên đội Quan sát số 1 thuộc Lực lượng Đặc biệt. Hạ tuần tháng 10 cùng năm, được cử đi du học lớp Thực tập hành quân và Huấn luyện Lực lượng Đặc biệt tại Okinawa, Nhật Bản trong thời gian một tháng. Hạ tuần tháng 4 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý các tướng lĩnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng để giành quyền lãnh đạo của tướng Nguyễn Khánh, ông được cử làm Chỉ huy trưởng đơn vị Lực lượng Đặc biệt Vùng 3 Chiến thuật. Đến ngày 10 tháng 8, ông được kiêm chức vụ Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Binh chủng Lực lượng Đặc biệt thay thế Trung tá Nguyễn Hộ. Ngày 1 tháng 11, nhân kỷ niệm 1 năm cách mạng 1963, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm. Tháng 4 năm 1965, ông được thăng cấp Đại tá và chuyển ra miền Trung nhận công tác tại Bộ tư lệnh Quân đoàn I ở Đà Nẵng. Cuối tháng 6, Xử lý thường vụ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh và Biệt khu 12 chiến thuật. Thượng tuần tháng 3 năm 1966, ông bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt lại cho Trung tá Nguyễn Hợp Đoàn, sau đó được cử làm Phụ tá cho Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh do Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận làm Tư lệnh. Hạ tuần tháng 10 cùng năm, ông được cử đi công cán tại Hồng Kông với nhiệm vụ đặc biệt trong thời gian 1 tuần lễ. Hạ tuần tháng 7 năm 1967, tiếp tục là Phụ tá Tư lệnh Sư đoàn 1 do Đại tá Ngô Quang Trưởng làm Tư lệnh. Đầu tháng 7 năm 1968, ông thuyên chuyển về Vùng 4 Chiến thuật, được cử làm Tư lệnh Biệt khu 44 Chiến thuật khu vực Đồng Tháp Mười và khu vực biên giới Việt-Miên.[6] Trung tuần tháng 4 năm 1969, ông được đặc cách thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Đầu tháng giêng năm 1970, được lệnh bàn giao Biệt khu 44 lại cho Đại tá Võ Hữu Hạnh, sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, thay thế Đại tá Phan Đình Thứ tự Lam Sơn.[7] -Thời điểm ông giữ chức vụ Tư lệnh, các sĩ quan Tham mưu gồm có -Phụ tá Tư lệnh Đại tá Hồ Tiêu.[8]-Tham mưu trưởng Trung tá Đỗ Trọng Khôi.[9] Tháng 8 năm 1970, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá Hồ Tiêu. Sau đó ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn IV và Quân khu 4. Giữa tháng 4 năm 1971, ông được đặc cách thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm, do Sư đoàn 1 đạt được chiến công trong chiến dịch Lam sơn 719. Sau đó, ông được cử làm Trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn gồm 25 quân nhân các cấp có chiến tích ở Hạ Lào đi thăm viếng Trung Hoa Dân Quốc Đài Loan. aboutblank Report this ad Trung tuần tháng 9 năm 1972, ông xin từ nhiệm để dưỡng bệnh sau khi bàn giao Sư đoàn 1 lại cho Đại tá Nguyễn Văn Điềm nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn. Đầu năm 1973, ông được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung thay thế Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng. Đầu tháng 11 năm 1974, ông bàn giao Trung tâm Huấn luyện Quang Trung lại cho Thiếu tướng Trần Bá Di nguyên Tư lệnh phó Quân đoàn IV. Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu 2 thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Toàn.[10]1975 Chiến dịch Tây Nguyên của Quân đội đối phương đã làm suy sụp tinh thần và đánh tan gần như hoàn toàn lực lượng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Cao nguyên Trung phần. Ngày 16 tháng 3, theo chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc họp khẩn cấp ngày 14 tháng 3[11] tại Thị xã Cam Ranh. Ông được chỉ thị Tổ chức và chỉ huy cuộc triệt thoái toàn bộ Quân đoàn II và Quân khu 2 về Tuy Hòa để tái phối trí Bộ tư lệnh Quân đoàn đặt ở Nha Trang. Cuộc triệt thoái này đã thất bại, làm rối loạn và thiệt hại lớn cho Quân đoàn II và Quân khu 2. Sau đó ông bị triệu tập về Sài Gòn nhưng vì lâm bệnh nặng nên không thể trình diện Tổng thống Thiệu được. Đầu tháng 4, ông phải vào điều trị tại Tổng y viện Cộng hòa. Đến sáng ngày 29 tháng 4 tại tư dinh số 19 đường Gia Long, Sài Gòn. Sau khi nhờ Đại úy Đỗ Đức Sáng sĩ quan tùy viên đưa phu nhân và các con ông lên phi trường Tân Sơn Nhứt để di tản ra khỏi Việt Nam, ông đã tự sát bằng một liều Choloroquine cực mạnh. Trung úy Mạnh sĩ quan an ninh biết được sự việc liền báo ngay cho phu nhân chưa kịp lên đường, quay trở lại đưa ông vào bệnh viện Grall cấp cứu nhưng vô vọng vì đã uống quá nhiều thuốc. Ông bị hôn mê đến 11 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, tỉnh lại thều thào hỏi phu nhân về hiện tình chiến cuộc ra sao. Sau khi được biết Tổng thống Dương Văn Minh đã ra lệnh cho toàn thể Quân lực Việt Nam Cộng hòa buông súng đầu hàng và quân giải phóng đã vào tới Sài Gòn. Nghe xong ông từ trần. Hưởng dương 47 tuổi. Gia đình Thân phụ Cụ Phạm Văn Tích Thân mẫu Cụ Nguyễn Thị Nhiễm. Nhạc phụ Cụ Đỗ Văn Lựu nguyên là Trung tá Chỉ huy phó Ngự lâm quân ở Đà Lạt thời Quốc trưởng Bảo Đại. Nhạc mẫu Cụ Vương Chúc Anh người Trung hoa gốc Thượng Hải Phu nhân Bà Đỗ Thị Lâm Đệ Ông bà có tám người con gồm 5 trai và 3 gái. Một người con gái đang sống ở Việt Nam, 7 người còn lại đã định cư ở Hoa Kỳ. Chú thích ^ Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng. ^ Địa giới trước kia là Thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Hà Đông, nay là phạm vi của một Quận thuộc Trung tâm Thành phố Hà Nội. ^ Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại úy Phú đã từng bắt nhịp bài La Marseillaise Quốc ca Pháp cho lính Quốc gia Việt Nam vừa hát vừa xông lên phản kích ở đồi C1 nên được các sĩ quan Pháp cảm kích. Khi Điện Biên Phủ thất thủ, Việt Minh bắt giam ông cùng với Bréchignac, Botella, Clédic, Mackowiak và nhiều quân nhân khác. Theo “Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 24 giờ cuối cùng” – Bernard B. Fall, Vũ Trấn Thủ dịch ^ Đài Tiếng nói Việt Nam sau này nhận định “Viên tướng Tư lệnh Phạm Văn Phú, kẻ đã bại trận thảm hại tại chiến trường Tây Nguyên năm 1975, cũng từng là lính Việt chiến đấu hăng hái bên các chiến hữu Pháp tại trận Điện Biên Phủ năm 1954. Tại Điện Biên, ông Phạm Văn Phú khi đó si mê hát Quốc ca Pháp, hô hào các binh sĩ ngụy khác đánh trả quân đội Việt Minh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp“ ^ Tiền thân của Trung tâm Huấn luyện Quang Trung sau này. ^ Sinh năm 1921 tại Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 1 Võ bị Trừ bị. Chức vụ sau cùng Tư lệnh phó Lãnh thổ Quân đoàn II. ^ Biệt khu 44 được thành lập ngày 1 tháng 12 năm 1967 gồm 4 tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong, Châu Đốc và An Giang. ^ Đại tá Lam Sơn được chuyển đi làm Phụ tá cho Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. ^ Sinh năm 1922 tại Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 2 Võ bị Địa phương Trung Việt còn gọi là trường Sĩ quan Đập Đá ở Huế ^ Sinh năm 1932 tại Hà Nội, tốt nghiệp trường khóa 7 Võ bị Quốc gia Đà Lạt. ^ Trung tướng Toàn được trở về Trung ương giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp. ^ Cuộc họp gồm có Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng tham mưu trưởng Đại tướng Cao Văn Viên và 4 tướng Tư lệnh 4 Quân đoàn Tham khảo Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy 2011. Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Vous êtes le Dr Pham Tuong-Vi ? Créez un compte gratuitement sur notre site web afin de compléter les informations qui figurent sur votre fiche. Ces informations aideront vos patients à en savoir plus sur vous les langues que vous parlez, les divers lieux où vous exercez, vos horaires de travail etc. Compléter mes informations
Tiểu sử & Binh nghiệp Quân đội Quốc gia Việt Nam Quân lực Việt Nam Cộng hòa 1975 Gia đình Chú thích Tham khảo Phạm Văn Phú 1928-1975, nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở nam Cao nguyên Trung phần vào thời điểm Quân đội Quốc gia còn là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Ra trường, ông gia nhập vào Binh chủng Nhảy dù, về sau ông chuyển sang Chỉ huy Binh chủng Lực lượng Đặc biệt và Bộ binh cấp Sư đoàn. Sau cùng ông là Tư lệnh một trong 4 Quân đoàn và Vùng chiến thuật của Quân lực Cộng hòa. Ông là một trong năm tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Tiểu sử & Binh nghiệpÔng sinh ngày 16 tháng 10 năm 1928, trong một gia đình Nho học tại Hà Đông, miền Bắc Việt Năm 1948, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài bán phần Part I. Sau đó ông được tuyển dụng làm công chức tại Hà Đông một thời gian đến khi gia nhập quân đội. Quân đội Quốc gia Việt NamGiữa năm 1952, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân 48/ Theo học khóa 8 Hoàng Thụy Đông tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1952. Ngày 28 tháng 6 năm 1953 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường ông được chọn phục vụ trong đơn vị Nhảy dù của Quân đội Liên hiệp Pháp. Sau đó, ông chuyển về Tiểu đoàn 5 Nhảy dù đảm trách chức vụ Trung đội trưởng. Tháng 12 cùng năm, ông được thăng cấp Trung úy giữ chức vụ Đại đội 14 tháng 3 năm 1954, ông được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 1 của Tiểu đoàn 5. Ngày 25 tháng 4, ông được đặc cách thăng cấp Đại úy tại mặt trận do chiến tích của Đại đội ông chỉ huy đạt được trong nhiệm vụ tái chiếm cứ điểm trọng yếu đồi Elianne trong trận Điện Biên Ngày 7 tháng 5, ông được ghi nhận là mất tích tại chiến trường do bị đối phương bắt làm tù binh, sau đó bị đưa về giam giữ ở trại giam Đình Cả, Thái Quân lực Việt Nam Cộng hòaNgày 8 tháng 7 năm 1955, sau Hiệp định Genève, cùng trong số 20 sĩ quan tù binh được Việt Minh trao trả qua ngã cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị thuộc vĩ tuyến 17. Sau đó được biên chế vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tháng 9 cùng năm, ông được cử theo học lớp Dẫn đạo Chỉ huy tại Trung tâm Huấn luyện số 1 ở Quán Đến đầu tháng 2 năm 1956, ông được tái phục vụ trong Binh chủng Nhảy tháng 1 năm 1960, ông được biệt phái qua đơn vị Bảo an, giữ chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Kiến Phong. Tháng 5 cùng năm, ông được cử làm Quận trưởng quận Trà Cú thuộc tỉnh Vĩnh Long. Ngày 26 tháng 10 cuối năm, nhân dịp lễ Quốc khánh lần thứ năm của nền Đệ nhất Cộng hòa, ông được thăng cấp Thiếu tá tại tháng 8 năm 1961, ông được cử làm Liên đội trưởng Liên đội Quan sát số 1 thuộc Lực lượng Đặc biệt. Hạ tuần tháng 10 cùng năm, được cử đi du học lớp Thực tập hành quân và Huấn luyện Lực lượng Đặc biệt tại Okinawa, Nhật Bản trong thời gian một tuần tháng 4 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý các tướng lĩnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng để giành quyền lãnh đạo của tướng Nguyễn Khánh, ông được cử làm Chỉ huy trưởng đơn vị Lực lượng Đặc biệt Vùng 3 Chiến thuật. Đến ngày 10 tháng 8, ông được kiêm chức vụ Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Binh chủng Lực lượng Đặc biệt thay thế Trung tá Nguyễn Ngày 1 tháng 11, nhân kỷ niệm 1 năm cách mạng 1963, ông được thăng cấp Trung tá tại 4 năm 1965, ông được thăng cấp Đại tá và chuyển ra miền Trung nhận công tác tại Bộ tư lệnh Quân đoàn I ở Đà Nẵng. Cuối tháng 6, Xử lý thường vụ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh và Biệt khu 12 chiến thuật. Thượng tuần tháng 3 năm 1966, ông bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt lại cho Trung tá Nguyễn Hợp Đoàn, sau đó được cử làm Phụ tá cho Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh do Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận làm Tư lệnh. Hạ tuần tháng 10 cùng năm, ông được cử đi công cán tại Hồng Kông với nhiệm vụ đặc biệt trong thời gian 1 tuần lễ. Hạ tuần tháng 7 năm 1967, tiếp tục là Phụ tá Tư lệnh Sư đoàn 1 do Đại tá Ngô Quang Trưởng làm Tư tháng 7 năm 1968, ông thuyên chuyển về Vùng 4 Chiến thuật, được cử làm Tư lệnh Biệt khu 44 Chiến thuật khu vực Đồng Tháp Mười và khu vực biên giới Trung tuần tháng 4 năm 1969, ông được đặc cách thăng cấp Chuẩn tướng tại tháng 1 năm 1970, được lệnh bàn giao Biệt khu 44 lại cho Đại tá Võ Hữu Hạnh, sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, thay thế Đại tá Phan Đình Thứ tự Lam Sơn.8 -Thời điểm ông giữ chức vụ Tư lệnh, các sĩ quan Tham mưu gồm có -Phụ tá Tư lệnh Đại tá Hồ -Tham mưu trưởng Trung tá Đỗ Trọng Tháng 8 năm 1970, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá Hồ Tiêu. Sau đó ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn IV và Quân khu 4. Giữa tháng 4 năm 1971, ông được đặc cách thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm, do Sư đoàn 1 đạt được chiến công trong chiến dịch Lam sơn 719. Sau đó, ông được cử làm Trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn gồm 25 quân nhân các cấp có chiến tích ở Hạ Lào đi thăm viếng Trung Hoa Dân Quốc Đài Loan.Trung tuần tháng 9 năm 1972, ông xin từ nhiệm để dưỡng bệnh sau khi bàn giao Sư đoàn 1 lại cho Đại tá Nguyễn Văn Điềm nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn. Đầu năm 1973, ông được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung thay thế Thiếu tướng Đoàn Văn tháng 11 năm 1974, ông bàn giao Trung tâm Huấn luyện Quang Trung lại cho Thiếu tướng Trần Bá Di nguyên Tư lệnh phó Quân đoàn IV. Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu 2 thay thế Trung tướng Nguyễn Văn 1975Chiến dịch Tây Nguyên của Quân đội đối phương đã làm suy sụp tinh thần và đánh tan gần như hoàn toàn lực lượng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Cao nguyên Trung phần. Ngày 16 tháng 3, theo chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc họp khẩn cấp ngày 14 tháng 312 tại Thị xã Cam Ranh. Ông được chỉ thị Tổ chức và chỉ huy cuộc triệt thoái toàn bộ Quân đoàn II và Quân khu 2 về Tuy Hòa để tái phối trí Bộ tư lệnh Quân đoàn đặt ở Nha Trang. Cuộc triệt thoái này đã thất bại, làm rối loạn và thiệt hại lớn cho Quân đoàn II và Quân khu 2. Sau đó ông bị triệu tập về Sài Gòn nhưng vì lâm bệnh nặng nên không thể trình diện Tổng thống Thiệu được. Đầu tháng 4, ông phải vào điều trị tại Tổng y viện Cộng sáng ngày 29 tháng 4 tại tư dinh số 19 đường Gia Long, Sài Gòn. Sau khi nhờ Đại úy Đỗ Đắc Tân sĩ quan tùy viên đưa phu nhân và các con ông lên phi trường Tân Sơn Nhứt để di tản ra khỏi Việt Nam, ông đã tự sát bằng một liều Choloroquine cực mạnh. Trung úy Mạnh sĩ quan an ninh biết được sự việc liền báo ngay cho phu nhân chưa kịp lên đường, quay trở lại đưa ông vào bệnh viện Grall cấp cứu nhưng vô vọng vì đã uống quá nhiều thuốc. Ông bị hôn mê đến 11 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, tỉnh lại thều thào hỏi phu nhân về hiện tình chiến cuộc ra sao. Sau khi được biết Tổng thống Dương Văn Minh đã ra lệnh cho toàn thể Quân lực Việt Nam Cộng hòa buông súng đầu hàng và quân giải phóng đã vào tới Sài Gòn, ông từ trần, hưởng dương 47 tuổi. Gia đình Thân phụ Cụ Phạm Văn Tích Thân mẫu Cụ Nguyễn Thị Nhiễm. Nhạc phụ Cụ Đỗ Văn Lựu nguyên là Trung tá Chỉ huy phó Ngự lâm quân ở Đà Lạt thời Quốc trưởng Bảo Đại. Nhạc mẫu Cụ Vương Chúc Anh người Trung hoa gốc Thượng Hải Phu nhân Bà Đỗ Thị Lâm Đệ Ông bà có tám người con gồm 5 trai và 3 gái. Một người con gái đang sống ở Việt Nam, 7 người còn lại đã định cư ở Hoa Kỳ. Chú thích ^ Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng. ^ Địa giới trước kia là Thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Hà Đông, nay là phạm vi của một Quận thuộc Trung tâm Thành phố Hà Nội. ^ Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại úy Phú đã từng bắt nhịp bài La Marseillaise Quốc ca Pháp cho lính Quốc gia Việt Nam vừa hát vừa xông lên phản kích ở đồi C1 nên được các sĩ quan Pháp cảm kích. Khi Điện Biên Phủ thất thủ, Việt Minh bắt giam ông cùng với Bréchignac, Botella, Clédic, Mackowiak và nhiều quân nhân khác. Theo "Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 24 giờ cuối cùng" - Bernard B. Fall, Vũ Trấn Thủ dịch ^ Đài Tiếng nói Việt Nam sau này nhận định "Viên tướng Tư lệnh Phạm Văn Phú, kẻ đã bại trận thảm hại tại chiến trường Tây Nguyên năm 1975, cũng từng là lính Việt chiến đấu hăng hái bên các chiến hữu Pháp tại trận Điện Biên Phủ năm 1954. Tại Điện Biên, ông Phạm Văn Phú khi đó si mê hát Quốc ca Pháp, hô hào các binh sĩ ngụy khác đánh trả quân đội Việt Minh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp" ^ Tiền thân của Trung tâm Huấn luyện Quang Trung sau này. ^ Sinh năm 1921 tại Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 1 Võ bị Trừ bị. Chức vụ sau cùng Tư lệnh phó Lãnh thổ Quân đoàn II. ^ Biệt khu 44 được thành lập ngày 1 tháng 12 năm 1967 gồm 4 tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong, Châu Đốc và An Giang. ^ Đại tá Lam Sơn được chuyển đi làm Phụ tá cho Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. ^ Sinh năm 1922 tại Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 2 Võ bị Địa phương Trung Việt còn gọi là trường Sĩ quan Đập Đá ở Huế ^ Sinh năm 1932 tại Hà Nội, tốt nghiệp trường khóa 7 Võ bị Quốc gia Đà Lạt. ^ Trung tướng Toàn được trở về Trung ương giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp. ^ Cuộc họp gồm có Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng tham mưu trưởng Đại tướng Cao Văn Viên và 4 tướng Tư lệnh 4 Quân đoàn Tham khảo Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy 2011. Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa Nguồn Wikipedia
Live stream preview Watch this video and more on Lịch Sử Việt Nam TV Watch this video and more on Lịch Sử Việt Nam TV Anh Hùng Tử, Khí Hùng Bất Tử • 5m 8s Phạm Văn Phú 1928 - 1975 nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở nam Cao nguyên Trung phần vào thời điểm Quân đội Quốc gia còn là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Ra trường, ông gia nhập vào Binh chủng Nhảy dù, về sau ông chuyển sang Chỉ huy Binh chủng Lực lượng Đặc biệt và Bộ binh cấp Sư đoàn. Sau cùng ông là Tư lệnh một trong 4 Quân đoàn và Vùng chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông là một trong năm tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.
Sinh ngày 1929 tại Hà Đông Phục vụ Quân Đội Pháp và QLVNCH Năm tại ngũ 1949 – 1975 Cấp bậc cuối cùng Thiếu Tướng Đơn vị Sư Đoàn Bộ Binh 1 Thiếu tướng Phạm Văn Phú 1929-1975 là Tư lệnh Quân đoàn II Vùng II Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Tóm tắt tiểu sử Năm 1953, Phạm Văn Phú tốt nghiệp Học viện Võ bị Liên quân Đà Lạt khóa 6, sau đó phục vụ trong binh chủng Nhảy dù của quân đội Liên Hiệp Pháp. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã từng bắt nhịp bài La Marseillaise Quốc ca Pháp cho lính Quốc gia Việt Nam vừa hát vừa xông lên phản kích ở đồi C1 nên được các sĩ quan Pháp cảm kích. Khi Điện Biên Phủ thất thủ, Việt Minh bắt giam cùng với Bréchignac, Botella, Clédic, Mackowiak và nhiều quân nhân khác. Sau Hiệp định Geneve, ông được trao trả và phục vụ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Năm 1962, Phạm Văn Phú thăng cấp Thiếu tá và giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn Quan sát 77 Lực lượng Đặc biệt. Năm 1964, Phạm Văn Phú được thăng Trung tá và giữ chức Tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt. Năm 1966, được thăng cấp Đại tá, giữ chức Tư lệnh Phó Sư đoàn 2 Bộ binh sau đó làm Tư lệnh Phó Sư đoàn 1 Bộ binh. Năm 1968, Phạm Văn Phú được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 và năm 1969 được thăng cấp Chuẩn tướng. Năm 1970, ông giữ chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và sau đó được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Năm 1971, ông được thăng Thiếu tướng. Năm 1974, Phạm Văn Phú giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II Vùng II Chiến thuật. Tháng 3/1975, chiến dịch Tây Nguyên của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh sụp gần như hoàn toàn Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Tây Nguyên. Phạm Văn Phú bị triệu về Sài Gòn và ông cáo bệnh không ra trình diện. Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Phạm Văn Phú tự sát bằng cách uống một liều thuốc cực mạnh, được gia đình đưa vào bệnh viện Grall và chết vào trưa ngày 30 tháng 4, sau khi Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng. source wikipedia Trong cái ngày đau buồn ấy, tại bệnh viện Grall ồn ất Sài Gòn, người ta đưa vào thi hài của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân oàn II & Quân Khu II, một chiến binh mà các cấp bậc đi lên đều được trao gắn vinh thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đã uống thuốc độc chết cùng với vận nước. Từ cái ngày người bị trọng thương và sa vào tay giặc ở iện Biên Phủ tháng rồi được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa sau ngày ký Hiệp ịnh Geneva Thiếu Tướng Phú đã thề với lòng là người thà chết chứ không chịu nhục nhã lọt vào tay giặc một lần nữa. Lời thề ấy người đã giữ trọn, người chết đi mang theo một nỗi hận mất nước và một nỗi oan khuất về cuộc triệt thoái Quân Khu II không mong muốn. Còn nhớ tại trận iện Biên Phủ, toàn tiểu đoàn của ại Úy Phú chỉ còn có 100 tay súng mà phải ngăn chống một số lượng quân địch đông gấp hai mươi lần, ông dẫn quân lên đánh cận chiến với địch và giành lại được hơn 100 thước chiến hào. ại Úy Phú và một số các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn đều bị đạn địch quật ngã và một vài giờ sau đó bị sa vào tay giặc. Trong thời gian bị giặc bắt làm tù binh, bệnh phổi của ại Úy Phú tái phát và ông mang bệnh lao. ịnh mệnh vẫn còn muốn cho người anh hùng được sống, để tiếp tục chiến đấu cống hiến nhiều hơn nữa cho nền tự do của tổ quốc, sau tháng ại Úy Phú được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa. Vị Tướng mảnh khảnh người, khuôn mặt xương nhưng có cái bắt tay mềm mại ấm áp ấy đã nhanh chóng trở thành một trong những vị Tướng xuất sắc nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lần lượt đảm nhiệm những chức vụ quan trọng Tư Lệnh Lực Lượng ặc Biệt, Tư Lệnh Biệt Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư oàn 1 Bộ Binh, và sau hết Tư Lệnh Quân oàn II & Quân Khu II. Chính là ở vị thế cực kỳ khó khăn này, Thiếu Tướng Phú phải đương đầu với nhiều vấn đề sinh tử có tầm vóc quốc gia, mà đã vượt ra khỏi quyền hạn nhỏ bé của ông. Người ta cho rằng việc thất thủ Ban Mê Thuột là do lỗi thiếu phán đoán của Thiếu Tướng Phú. Người ta chỉ có thể dùng quân luật và quân lệnh để bắt buộc Thiếu Tướng Phú thi hành lệnh rút quân, thậm chí đặt ông vào tình trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe ngay trong ngày hai ngày trước khi Quân oàn II rút quân ra khỏi cao nguyên. Thiếu Tướng Phú đau lòng theo dõi các mũi tiến quân của địch, như những vết dầu loang nhanh chóng thấm đỏ hết hai phần ba lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Người biết cái sinh mạng nhỏ bé của mình cũng co ngắn lại cùng với số mệnh của đất nước. Rồi khi những chiếc khăn rằn và những chiếc áo màu xanh rêu mốc đã tràn ngập khắp phố phường Sài Gòn trong ngày người chọn cái chết lưu danh thanh sử bằng cách uống độc dược, để tỏ rõ ý chí bất khuất của người làm Tướng và chứng tỏ cho đối phương biết rằng họ có thể chiếm được đất nhưng không có thể quy phục được tiết tháo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. source HOME Trở về Trang chính Tiểu sử 5 vị Tướng
thieu tuong pham van phu